Nhớ nhà báo liệt sĩ Trần Văn
(Cadn.com.vn) - Trong đợt trao trả hồ sơ đi B do UBND TP Đà Nẵng tổ chức ngày 25-4 vừa qua, chúng tôi chú ý đến hồ sơ của một nhà báo quê Hòa Vang, Đà Nẵng. Trong phần nêu nguyện vọng, ông viết: “Thiết tha muốn về miền Nam chiến đấu, hoạt động, công tác gì cũng được nhưng hợp nhất là thông tin, báo chí”. Ông là nhà báo liệt sĩ Trần Văn Anh (quê Hòa Khương, Hòa Vang), đã hy sinh khi làm nhiệm vụ trên chiến trường.
Đến bây giờ khi nhắc đến Trần Văn Anh, nhiều đồng đội trong ngành Tuyên huấn Quảng Đà vẫn còn nhớ hình ảnh về một nhà báo chiến trường dày dạn kinh nghiệm và luôn tận tâm với đồng nghiệp. Sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở xã Hòa Khương, khi 18 tuổi ông đã tham gia công tác ở ban an ninh Điện Bàn, vào ban chấp hành thanh niên cứu quốc huyện, được kết nạp Đảng, sau đó vào bộ đội, công tác trong Ban chính trị Trung đoàn 93. Sau Hiệp định Genève, ông tập kết ra Bắc, chuyển sang làm phóng viên Báo Đường sắt Việt Nam. Lúc bấy giờ, cũng như nhiều người con miền Nam, hằng ngày nghe những thông tin chiến sự miền Nam, lòng ông không yên. Dù bị cận thị nặng không thuộc diện “đi B” nhưng ông vẫn viết đơn tình nguyện trở lại chiến trường. “Tha thiết muốn về miền Nam chiến đấu, hoạt động, công tác gì cũng được, nhưng hợp khả năng nhất là thông tin, báo chí. Đã chuẩn bị sẵn sàng có thể đi được ngay, không vương vấn, khó khăn gì”-đó là những dòng viết cảm động như thế trong hồ sơ “đi B” của nhà báo Trần Văn Anh...
![]() |
Nhà báo Trần Văn Anh lúc ở miền Bắc. |
Về đến quê hương, ông lấy bút danh là Trần Văn, nhanh chóng bước vào cuộc chiến đấu với lòng hăng say của tuổi trẻ. Nhiều bài báo và thơ của ông về chiến trường Quảng Đà đã tạo được tiếng vang lớn. Trong hồi ký của mình, nhà thơ Bùi Minh Quốc, đồng đội của nhà báo Trần Văn vẫn còn nhớ như in những kỷ niệm về ông: “Anh cận thị nặng, phải bốn năm độ, cặp kính dày cộm trên gương mặt đen cháy, đầy râu của một nông dân dầm sương dải nắng, đó là cái nét tương phản rất khó quên ở Trần Văn. Có lần tôi hỏi “anh cận thị thế, sao đứng được ở chiến trường ác liệt này?”, anh chỉ cười cười “Cũng ráng theo anh em”, sau này tôi mới hiểu cái “cũng ráng” của anh là thế nào. Năm 1967, ông là Ủy viên Ban Tuyến huấn Đặc khu ủy Quảng Đà, phụ trách tuyên truyền, quản lý cả hai tờ báo Giải phóng và Cờ Giải phóng nên công việc rất nhiều, di chuyển liên tục trên khắp chiến trường để kịp thời đưa tin. “Một số bài thơ tôi làm được ngay khi mới vào chiến trường, ngoài sự trực tiếp trải nghiệm thực tế chiến đấu một phần là những kinh nghiệm của Trần Văn truyền cho. Những đêm nằm bên nhau trong hầm, Trần Văn kể cho tôi nghe chuyện về đất và con người Quảng Đà. Tôi nhớ dạo đó, đời sống anh em tòa soạn thiếu thốn quá, Trần Văn biến đi đâu mất, hai ngày sau anh về xách theo gần chục cân thịt heo và mấy chục ngàn. Thì ra anh bất chấp nguy hiểm, cuốc bộ về quê ở xã Hòa Khương xin nhân dân. Anh kể, phải hóa trang làm ông già để qua mặt các điểm chốt chặn của địch. Hay lần khác, anh đưa chúng tôi vượt vòng vây, từ bãi bói Bình Trị vượt sông Thu Bồn, băng qua vùng Gò Nổi, phải đi suốt đêm mới về đến Xuyên Mỹ. Không có đường nên Trần Văn đi trước, đạp lau sậy dẫn lối. Anh lúc nào cũng là người đi trước, bình tĩnh tổ chức mọi công việc trong tình huống ngặt nghèo...”-nhà thơ Bùi Minh Quốc nhớ lại.
![]() |
Hồ sơ “đi B” của nhà báo Trần Văn Anh vừa được UBND thành phố trao trả cho gia đình. |
Phụ trách hai tờ báo lớn ở chiến trường Quảng Đà, Trần Văn Anh từng có những quyết định rất táo bạo. Trong sự kiện Tết Mậu Thân (1968), ông đã tổ chức in báo Tết dưới đồng bằng. Thời điểm đó chiến sự rất ác liệt và để đặt được cơ sở in dưới đồng bằng là chuyện không đơn giản thế nhưng Trần Văn Anh đã dám làm và làm được. Ngay sau khi nổ ra cuộc tổng tấn công Mậu Thân, Báo Cờ Giải phóng và Giải phóng in hai màu đã được phát tới các đơn vị vũ trang, các đội quân đấu tranh chính trị...
Một ngày tháng 12-1968, nhận được chỉ thị của Thường vụ tỉnh ủy Quảng Đà, Trần Văn Anh cùng các đồng đội như Hồ Hải Học, Hồ Duy Lệ... trở lại vùng Điện Thái, một xã nằm bên bờ sông Thu Bồn để nhận nhiệm vụ đặc biệt. Nhưng khi vừa đến nơi thì bị máy bay địch phát hiện lao xuống đánh bom. Trần Văn Anh bị thương nặng, được các đồng đội khiêng đến bệnh xá. Nhà báo Hồ Duy Lệ bùi ngùi kể: “Lúc ở trạm xá, như biết mình không qua khỏi, anh ra hiệu cho tất cả anh em tôi đứng quanh, rồi dặn: “Chắc anh không sống nổi đâu, đừng tiêm thuốc gì cho anh cả. Anh mong các em ở lại, đoàn kết, hoàn thành nhiệm vụ, lo cả việc của Đảng giao cho anh”. Trước lúc hy sinh anh vẫn đau đáu vì nhiệm vụ, lo cho anh em đồng nghiệp”. Qua những câu chuyện kể, đọc được hồ sơ “đi B” của ông, ai cũng thương nhớ, cảm phục nhà báo chiến trường Trần Văn. Ông đã chọn và dấn thân hết mình với nghề cầm bút.
An Dương–Minh Hà